Quản lý và xử trí suy tim (HF) có hướng dẫn huyết động học làm giảm số lần nhập viện do HF ở những bệnh nhân HF đã nhập viện trước đó với các triệu chứng NYHA class III của Hiệp hội Tim mạch New York trong thử nghiệm CHAMPION*. Tuy nhiên, vẫn chưa chắc chắn liệu phương pháp này có làm giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân hay không và nếu lợi ích mở rộng cho bệnh nhân NYHA Class II và IV HF hoặc những bệnh nhân có triệu chứng tăng peptide natri lợi niệu mà không nhập viện HF gần đây. Được công bố trên The Lancet, Giáo sư JoAnn Lindenfeld (Trung tâm Y tế Đại học Vanderbilt, Nashville, Hoa Kỳ) đã trình bày kết quả từ thử nghiệm GUIDE-HF, nhằm tìm cách trả lời những câu hỏi quan trọng này.
Thử nghiệm mù đơn này đã thu nhận 1.000 bệnh nhân với NYHA class II – IV HF và nhập viện do HF trong vòng 12 tháng trước đó hoặc peptit lợi niệu natri tăng cao (peptit lợi niệu natri type B / peptit lợi niệu natri N-terminal pro type B) trong vòng 30 ngày. Tất cả những người tham gia đều được cấy thiết bị CardioMEMS. Sau đó, bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên 1: 1 vào một nhóm điều trị, được quản lý bằng quyền truy cập từ xa của nhà cung cấp vào dữ liệu huyết động hoặc nhóm kiểm soát, được quản lý mà không có quyền truy cập của nhà cung cấp vào những dữ liệu này. Chỉ tiêu chính là tổng hợp các lần nhập viện do HF tích lũy, các lần khám HF khẩn cấp và tỷ lệ tử vong.
Trong thời gian theo dõi trung bình 11,7 tháng, có 253 biến cố chỉ tiêu chính ở nhóm điều trị và 289 ở nhóm kiểm soát, giảm 12% ở nhóm điều trị, điều này không đạt ý nghĩa thống kê (tỷ lệ nguy cơ [HR] 0,88 ; Khoảng tin cậy 95% [CI] 0,74 đến 1,05; p = 0,16). Tuy nhiên, đáng lưu ý, một phân tích tiền COVID-19 được chỉ định trước, được thực hiện trên dữ liệu đến ngày 13 tháng 3 năm 2020, cho thấy sự giảm đáng kể 19% các biến cố chỉ tiêu chính trong nhóm điều trị (HR 0,81; CI 0,66-1,00; p = 0,0489).
Hình: Tỉ lệ nguy cơ [HR] tích lũy và khoảng tin cậy [CI] 95% đối với chỉ tiêu tổng hợp chính và nhập viện do suy tim**
Về số lần nhập viện do HF đã giảm 17% ở nhóm điều trị trong phân tích tổng thể (p = 0,064) và 28% trong phân tích tiền COVID-19 (p = 0,0072) – mức giảm này tương tự như mức đạt được trong thử nghiệm CHAMPION. Các lần khám HF khẩn cấp cũng như tỷ lệ tử vong đều không giảm độc lập với việc điều trị trong các phân tích tổng thể hoặc tiền COVID-19.
GS. Lindenfeld nhận xét: “Các phát hiện chỉ ra rằng lợi ích của việc xử trí có hướng dẫn về huyết động trong việc giảm nhập viện do HF kéo dài đối với những bệnh nhân có HF ít nghiêm trọng hơn (NYHA class II) và những người có các triệu chứng NYHA II và III và tăng peptide natri lợi niệu nhưng không nhập viện trước đó. Các bệnh nhân HF NYHA class IV không cho thấy kết quả phù hợp nhưng số lượng ít.” Bà cũng nói thêm, “Đại dịch COVID-19 rõ ràng đã ảnh hưởng đến kết quả của GUIDE-HF, giống như trong thử nghiệm AFFIRM-AHF***. Các thử nghiệm lâm sàng được tiến hành trong thời kỳ đại dịch sẽ yêu cầu các kế hoạch phân tích thống kê để tính đến các tác động của chúng”.
CÔNG TY TNHH H.T.L chuyên cung cấp trang thiết bị y tế, đặc biệt trong lĩnh vực thiết bị điều trị rối loạn nhịp tim, khảo sát và cắt đốt điện sinh lý tim & hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể. Đội ngũ kỹ sư, nhân viên giàu kinh nghiệm và chuyên nghiệp đảm bảo chất lượng dịch vụ tốt nhất.
Nguồn thông tin và hình ảnh:
1. Website: https://www.escardio.org/Congresses-&-Events/ESC-Congress/Congress-news/copy-of-hot-line-av-junction-ablation-combined-with-cardiac-resynchronisation
2. (*) Abraham WT, et al. Lancet. 2011;377:658–666
3. (**) Haemodynamic-guided management of heart failure (GUIDE-HF): a randomised controlled trial, JoAnn Lindenfeld, Michael R Zile, Akshay S Desai, Kunjan Bhatt, Anique Ducharme, Douglas Horstmanshof, Selim R Krim, Alan Maisel, Mandeep R Mehra, Sara Paul, Samuel F Sears, Andrew J Sauer, Frank Smart, Marcel Zughaib, Paige Castaneda, Jean Kelly, Nessa Johnson, Poornima Sood, Greg Ginn, John Henderson, Philip B Adamson, Maria Rosa Costanzo.
4. (***) Ponikowski P, et al. Lancet. 2020;396:1895–1904.
Biên dịch: Support H.T.L Team.